Trong cuộc làm việc với báo chí , ông Việt đã nói: trung tâm này chỉ thu được của người lao động tiền phí quản lý 1.000 USD/người thì chỉ thanh lý cho người lao động trong khoản thu ấy. Còn lại khoản phí 2.000 USD/người được công ty thu và chuyển cho đối tác là chủ sử dụng lao động ngoại bang để làm thủ tục cho người lao động , bởi thế công ty không thể giao hoàn người lao động khoản thu này.Cả người lao động và doanh nghiệp đều có bằng chứng của mình. Nhưng điều khiến người lao động ngạc nhiên là khi tuyển chọn , đưa lao động đi Nga và giải quyết các Sự tình nảy sinh của người lao động tại Nga chính yếu do ông Trần Gia Bảo nhân danh trung tâm thực hiện. Thậm chí , ông Bảo còn lấy với tư cách là đại diện cho trung tâm để ký vào các biên bản dấn việc người lao động không có lương trong năm tháng làm việc , điều kiện sống tồi tàn , phải ở trong các container và phải chạy cảnh sát liên tục... tại Nga. Nhưng tới nay , Đại khái những sai phạm này đã bị trung tâm hợp tác lao động ngoài nước phủ nhận , còn ông Bảo thì không xuất hiện.Cùng với vụ 36 lao động của tổng công ty Thép , 39 lao động được công ty Vinahandcoop đưa sang Nga làm việc trong một xưởng may đen cũng chịu cảnh 13 tháng không lương và điều kiện làm việc tồi tệ. Đã ba tháng kể từ khi số lao động này về nước , họ cũng không được thanh lý hợp đồng. Chẳng đã , người lao động đã phải kéo lên họp tập tại cổng cục Quản lý lao động ngoại bang để hy vọng gây sức ép đòi quyền lợi. Tổng chi phí trước khi đi gần 3.000 USD/người với lương bổng 13 tháng làm việc có nguy cơ bị mất trắng.Căn cứ để thanh lý hợp đồng được ông Đào Công Hải , phó cục trưởng cục Quản lý lao động ngoại bang nói , đó là hai hợp đồng người lao động đã ký , một với chủ sử dụng lao động ngoại bang và một với công ty xuất khẩu lao động trong nước. Cần phải xem xét kỹ các điều khoản trong hai hợp đồng này mới có thể đưa ra được phương án thanh lý. Cục không dự khán vào việc thanh lý hợp đồng với người lao động mà chỉ yêu cầu doanh quả báo cáo Cuối cùng thực hiện trên cơ sở các quy định đã được ban hành.Tuy nhiên , điều dễ nhận thấy nhất ở hai vụ việc trên và dồi dào vụ Đầu mối khác người lao động phải về nước trước hạn là sự vi phạm hợp đồng của doanh nghiệp xuất khẩu lao động ngay từ đầu. Hợp đồng ký với người lao động về mức lương tối thiểu ( để có cơ sở thu phí ) cao nhưng công việc thực tế tại ngoại bang lại không có lương bổng như vậy. Cộng thêm điều kiện ăn ở , sinh hoạt không như cam đoan , nhiều người lao động thuật lại , họ có cảm giác mắc mớp ngay từ khi nhận công việc tại ngoại bang. Nhiều người làm tới 12 giờ/ngày mà vẫn không Đạt tới mức lương tối thiểu bởi chỉ tiêu công việc quá cao.Rõ ràng , người lao động đã không biết được những câu chuyện quá zíc zắc trong “nghiệp vụ xuất khẩu lao động” và dễ dàng bị xử ép. Cơ quan quản lý hờ hững. Những người nhà nông thiếu việc làm với hy vọng cải thiện cuộc sống đã phải vay lãi một Bớt đi lớn để được ra ngoại bang làm việc nhưng đang phải đối mặt với nguy cơ nợ nần và mất trắng.Tây Giang
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét